Nhà ngô đặt tên nước là gì tuyệt vời nhất 2024

Xem Nhà ngô đặt tên nước là gì tuyệt vời nhất 2024

Sau trận đại thắng lừng danh kim cổ trên sông Bạch Đằng, đập tan quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên ngôi vua, mở ra thời kỳ trung hưng rực rỡ của dân tộc. do đó, Ngô Quyền được giới sử gia xếp là chủ tịch trong các bậc vua chúa ở Việt Nam xưa kia.

Bạn đang xem: Ngô quyền đặt tên nước là gì

Ngô Quyền sinh năm 898, mất năm 944, là người Đường Lâm (nay là Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội).

Ông vốn sinh ra trong một cái họ hào trưởng có thế lực, cực kỳ được người dân địa phương mến phục. khi trưởng thành, Ngô Quyền nổi tiếng là một bạn teen khôi ngô, tuấn kiệt, văn võ toàn tài. Ông được Dương Đình Nghệ, người có quyền lực cao một thế lực lớn nhất nhì cả nước thời bấy giờ, gả con gái và tin cậy giao cho cải quản cả lãnh thổ Ái Châu rộng lớn, trù phú.

Mô phỏng trận Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, năm 938

khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn sát hại, đoạt ngôi vị Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ (chủ tịch Tĩnh Hải Quân – tên gọi của nước ta thời bấy giờ). Do soán ngôi bất minh, Kiều Công Tiễn bị dân chúng và các thế lực quyền lực phản đối kịch liệt. Chẳng các thế, Kiều Công Tiễn còn đứng trước nguy cơ bị các cánh quân của các tướng lĩnh người Việt thảo phạt, trong đó có Ngô Quyền – người rất căm tức Kiều Công Tiễn vì đã sát hại cha vợ mình. Hoảng sợ trước viễn cảnh đen tối, Kiều Công Tiễn dấn thêm một bước sai lầm tệ hại, cầu cứu nhà Nam Hán. Chỉ chờ có vậy, nhà Nam Hán bèn lấy cớ xua quân xuống xâm lược nước ta.

Tuy nhiên, chưa kịp chờ quân Nam Hán tới cứu, Kiều Công Tiễn đã bị Ngô Quyền tiễu trừ.

Sau khi diệt được kẻ nghịch tặc Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng đối đầu có quân giặc Nam Hán.

Xem thêm: Tiểu Sử Mai Tài Phến Tên Thật Là Gì ? Tiểu Sử, Sự Nghiệp Và yêu đương Nam Diễn Viên

Là một người văn võ toàn tài, Ngô Quyền nắm siêu rõ quy luật lên xuống thủy triều trên sông Bạch Đằng. Quân Nam Hán lại tấn công nước ta bằng đường thủy. Ngô Quyền bèn dụng mưu nhờ thủy triều diệt giặc giúp.

Ông cho người đóng cọc lim, đầu vót nhọn, bọc sắt cứng xuống lòng sông Bạch Đằng. Chờ khi thủy triều lên ngập hết bãi cọc, Ngô Quyền cho quân đi thuyền nhẹ ra khiêu chiến, rồi giả thua bỏ đạp xe. Quân Nam Hán tưởng thật, bèn ồ ạt dùng thuyền lớn đuổi theo. khi toàn bộ chiến thuyền của quân Nam Hán rơi vào vùng bãi cọc, cũng là khi thủy triều xuống rất nhanh. Thuyền Nam Hán bị trúng cọc sắt, đua nhau chìm, lật. Bấy giờ, Ngô Quyền mới dốc tổng lực ra đánh. Quân Nam Hán hỗn loạn, mười phần thì hoặc bị chết chìm, hoặc bị quân ta giết đến 6, 7 phần. Tướng giặc là Lưu Hoằng Tháo cũng chết trong đám hỗn loạn ấy. Bấy giờ là năm 938.

Sau trận thắng oanh liệt đó, nhà Nam Hán không còn dám ho he nghĩ tới chuyện xâm lấn nước Việt ta nữa.

Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền lên ngôi, xưng là Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ cho nước Việt ta.

Vì là người mở ra thời kỳ độc lập huy hoàng cho đất nước, Ngô Quyền được giới sử gia tôn vinh là “vua đứng đầu các vua”, hay là “vị tổ trung hưng” của nước Việt.

Ghi nhớ công ơn của ông, nhân dân khắp nơi lập đền thờ ông. Người dân Đường Lâm cũng thế. bây chừ, ở Đường Lâm vẫn còn lưu giữ ngôi đền thờ Ngô Quyền và lăng mộ của ông ở ngay cạnh dặng duối cổ thụ, các cây duối được cho là Ngô Quyền đã sử dụng để buộc voi thời xưa, nhìn ra sông Tích và mênh mông hồ nước, nơi được cho là Ngô Quyền dùng để huấn luyện đánh thủy binh.

Nhân kỷ niệm biện pháp mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9

Quốc hiệu và tên thủ đô nước ta qua các thời

                                                                                 HUY HOÀNG

Quốc hiệu và tên thủ đô luôn là hai trong số các dòng tên thiêng liêng nhất đối sở hữu mỗi dân tộc, mỗi nhân sinh. Nó khẳng định sự tồn tại và chủ quyền của một lãnh thổ, thể hiện ý thiết bịc và niềm tự hào dân tộc, cũng như sự bình đẳng sở hữu những nước khác trên cuộc sống. Qua mấy ngàn năm lịch sử, để hình thành “Việt Nam” và “Hà Nội” như hiện tại, quốc hiệu và tên thủ đô nước ta đã nên trải qua không ít thăng trầm.

Từ đầu thời đại đồng thau, những bộ lạc người Việt đã định cư kiên cố chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sống tất cả ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt (Tây Âu) sống toàn bộ ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ sở hữu nhau, bên cạnh những thành phần dân cư khác.

Do cần phải có trị thủy, lời nên chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng gia tăng, những bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có trào lưu tập hợp và thống nhất lại. Trong số những bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả những bộ lạc Lạc Việt, dựng buộc đề nghị nước Văn Lang, đặt kinh đô tại Phong Châu (thuộc Bạch Hạc – Phú Thọ bây giờ), tự xưng vua – mà sử cũ gọi là Hùng Vương và con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.

Căn cứ vào những tài liệu sử học, có thể tạm bằng lòng địa bàn nước Văn Lang tương ứng mang vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta hiện giờ cùng có một phần phía nam Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc). Thời gian tồn tại của nước Văn Lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên (TCN) đến thế kỷ 3 TCN.

Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm người Việt. Thục Phán – thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt – được tôn lúcến cho người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần đề nghị rút lui. sở hữu uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.

Năm 179 TCN, Triệu Đà – vua nước Nam Việt – tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta thành nhiều châu, quận mang những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên “Âu Lạc” trong ý máyc, yêu đương và sinh hoạt thường ngày của nhân dân ta.

Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, nháii phóng lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí bằng lòng lên ngôi Hoàng đế (Lý Nam Đế), đóng đô ở Long Biên, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, khẳng định niềm tự tôn dân tộc, độc lập có các hoàng đế ở phương Bắc và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.

Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đình Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và chỉ được khôi phục sau lúc Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa để – như lời sử cũ – “tỏ ý nối tiếp quốc thống xưa của An Dương Vương” và xây dựng một chính quyền nơi Đánh mạnh độc lập.

Năm 968, sau khi dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), định đô ở Hoa Lư (thuộc Gia Viễn – Ninh Bình ngay lúc này).

Kế tiếp nhà Đinh, nhà Tiền Lê (980-1009) vẫn giữ nguyên quốc hiệu, tên và vị trí thủ đô.

Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn vì thấy Hoa Lư chật hẹp, hẻo lánh, không thể khiến cho nơi dồn vào đất nước, đã quyết định dời thủ đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Tương truyền vua nhìn thấy rồng vàng bay lên ở đó, bèn đặt tên thủ đô mới là Thăng Long (Hà Nội Trên thực tế). Mục đích của việc dời đô được Lý Công Uẩn nêu rõ trong Chiếu thiên đô: “đóng nơi nơi lưu ý, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”. Vị Thái Tổ nhà Lý đã sớm nhận thấy “thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí mê say trung có bốn phương: đông – tây – nam – bắc, thuận cho chiều hướng gặp gỡ của núi sông” và đánh giá Thăng Long “thật là chỗ hội tụ bốn phương, là nơi đô thành hàng đầu của đế vương muôn đời”!

Tháng 11/1054, nhân điềm lành lớn là việc có mặt trên thị trường một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý ngay tắp lự cho đổi quốc hiệu là Đại Việt, thể hiện niềm tự tôn và ý thiết bịc bình đẳng sâu sắc của nước ta có các nước ngoài.

Hai dòng tên Đại ViệtThăng Long được giữ nguyên suốt thời Lý (1010-1225) và thời Trần (1226-1400).

Tháng 3/1400, Hồ Quý Ly phế Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ. Quý Ly cho đổi quốc hiệu thành Đại Ngu (“ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Vẫn lấy Thăng Long khiến cho thủ đô, nhưng ngay từ năm 1397, Quý Ly đã cho xây thành Tây Đô rất lớn (thuộc Vĩnh Lộc – Thanh Hóa hiện nay), coi đây như “thủ đô thứ hai”. Cũng vì có Tây Đô mà Thăng Long còn được gọi là Đông Đô. Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).

Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt lại quốc hiệu là Đại Việt (lãnh thổ nước ta bây giờ về phía nam đã tới Thuận Hóa), thủ đô là Thăng Long.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung xóa bỏ nhà Lê, lập ra nhà Mạc, đóng đô tại Thăng Long (Đông Đô). Nguyễn Kim – trung thần nhà Lê – đi bộ vào Thanh Hóa, tôn Lê Duy Ninh lên ngôi vua (Lê Trang Tông), xây dựng chính quyền riêng, đóng tại Tây Đô.

Năm 1545, Nguyễn Kim chết, quyền lực rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Năm 1592, nhà Mạc bị họ Trịnh (vẫn trên danh nghĩa phù Lê) đánh bại, buộc phải chạy lên Cao Bằng và bị tận diệt vào năm 1692.

Nguyễn Hoàng – con Nguyễn Kim – xin vào trấn thủ các đất Thuận Hóa, Quảng Nam, rồi phát triển lực lượng chống lại họ Trịnh. Từ năm 1627 đến năm 1672, Trịnh – Nguyễn đánh nhau dữ dội mà bất phân thắng bại, nên lấy sông Gianh làm giới tuyến. Chúa Trịnh ở Đàng kế bên (Bắc Hà), đóng đô tại Thăng Long; chúa Nguyễn ở Đàng Trong (Nam Hà), đóng đô tại Thuận Hóa, rồi Phú Xuân (Huế ngày nay).

Năm 1771, ba anh em Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) khởi nghĩa. Năm 1778, khi đã đánh bại chúa Nguyễn (lần đầu tiên), Nguyễn Nhạc lên ngôi. Năm 1786, đánh bại chúa Trịnh, Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn. Cuối năm 1788, Nguyễn Huệ cũng lên ngôi Hoàng đế, đóng đô tại Phú Xuân. bởi vậy, thời kỳ này cùng tồn tại 2 chính quyền và 2 thủ đô.

Sau khi đánh tan quân Thanh và chinh phục đất Bắc Hà, Nguyễn Huệ chuẩn bị dời đô (thực ra, ý định này có ngay từ năm 1778). Địa điểm lựa tìm lúc đầu là Phù Thạch, bên sông Lam, dưới chân núi Nghĩa Liệt, nhưng không thành. Tiếp đó, Nguyễn Huệ định chọn xã Yên Trường, huyện Châu Lộc (tức Vinh bây chừ), cũng không thành. Cuối cùng, ông lại sắm địa điểm mới dưới chân núi [Dũng] Quyết ở gần Bến Thủy, sở hữu tên “Phượng Hoàng trung đô”. Nhưng kinh đô mới vừa được khởi công xây dựng thì bị bỏ do ông mất đột ngột (năm 1792).

Hai tiếng “Việt Nam” có mặt trên thị trường khá sớm – ít nhất là từ thế kỷ 14 – và được ghi nhận trong nhiều thư tịch như: Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Trình tiên sinh quốc ngữ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vân đài dòng ngữ của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương chiếc chí của Phan Huy Chú… Đặc biệt, trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) – theo đó, mùa xuân năm Nhâm Tý 1792, Nguyễn Huệ đã cho đổi quốc hiệu là Việt Nam.

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, đặt quốc hiệu là Việt Nam(năm 1804 được nhà Thanh ở Trung Quốc phê chuẩn). Nguyễn Ánh vẫn giữ tên gọi Thăng Long là Bắc Thành – do Nguyễn Huệ đổi trước đó. Đến năm 1805, Nguyễn Ánh mới khôi phục địa danh Thăng Long.

Năm 1831, vua Minh Mạng chia Bắc Thành tổng trấn ra nhiều tỉnh hạt. Huyện Từ Liêm thuộc tỉnh Sơn Tây được đưa vào phủ Hoài Đức, gộp sở hữu các phủ Ứng Hòa, Lý Nhân, Thường Tín thuộc trấn Sơn Nam, làm thành tỉnh Hà Nội. Cuối thời Minh Mạng (1820-1840), nước ta được đổi tên thành Đại Nam và có lãnh thổ rộng nhất.

Ngày 19/8/1945, cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2/9/1945, người đứng đầu Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô là Hà Nội.

Suốt ba thập kỷ tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt, hai từ “Việt Nam” và “Hà Nội” vẫn được dùng phổ biến từ Bắc chí Nam và biến thành thân thiết, thiêng liêng đối với hoàn toàn người.

Ngày 30/4/1975, miền Nam được kém chất lượngi phóng, non sông quy về một mối. Ngày 2/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tên thủ đô là Hà Nội. Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quốc hiệu và tên thủ đô đó, đưa nó trở thành bằng lòng cả về pháp lý lẫn trên thực tế./.

Bạn đang đọc bài viếtNhà ngô đặt tên nước là gì tuyệt vời nhất 2024


✅ Thâm niên trong nghềCông ty dày dặn nghiệm trong ngành giặt từ 5 năm trở lên.
✅ Nhân viên chuyên nghiệpĐội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, nhiệt tình có kinh nghiệm và kỹ năng trong giặt đồ.
✅ Chi phí cạnh tranhChi phí giặt luôn cạnh tranh nhất thị trường và đảm bảo không có bất kỳ chi phí phát sinh nào.
✅ Máy móc, thiết bị hiện đại⭐Chúng tôi đầu tư hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại nhất để thực hiện dịch vụ nhanh chóng và hiệu quả nhất

HỆ THỐNG CỬA HÀNG GIẶT LÀ CÔNG NGHIỆP PRO

 

Cở sở 01: Ngõ 199/2 Đường Phúc Lợi, Phúc Lợi, Long Biên, Hà Nội

Cơ Sở 02: Số 200, Trường Chinh, Quận Thanh Xuân, Hà Nội

Cơ Sở 03: Số 2C Nguyên Hồng, Thành Công, Ba Đình, Hà Nội

Cơ Sở 04: Số 277 Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Cơ Sở 05: Số 387 Phúc Tân, Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Cơ Sở 06: Số 4 Hàng Mành, Hàng Gai, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Cơ Sở 07: Số 126, Thượng Đình, Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội

Cơ Sở 08: Số 261 Nguyễn Khang, Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội

Cơ Sở 09: Số 68 Nguyễn Lương Bằng, Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội

Cơ Sở 10: Tầng 7, Plaschem 562 Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, Hà Nội

Cơ Sở 11: Số 72, Phố An Hòa, P. Mộ Lao, Hà Đông, Hà Nội

Cơ Sở 12: Số 496, Thụy Khuê, Bưởi, Quận Tây Hồ, Hà Nội